Các phiên bản Douglas_A-26_Invader

Chiếc Douglas A-26B bên trên bầu trời Triều Tiên, tháng 2 năm 1951

Hầu hết trong tổng số 2.452 chiếc A-26/B-26 Invader được sản xuất thuộc các phiên bản A-26B và A-26C đời đầu.

XA-26Chiếc số hiệu 41-19504 được dùng làm chiếc nguyên mẫu của loạt máy bay; ban đầu được bay với các vũ khí giả.XA-26AChiếc số hiệu 41-19505 được dùng làm chiếc nguyên mẫu của phiên bản tiêm kích bay đêm, với đội bay gồm hai phi công và một xạ thủ súng máy kiêm điều khiển radar.XA-26BChiếc số hiệu 41-19588 được dùng làm chiếc nguyên mẫu của phiên bản máy bay cường kích mũi kín, với đội bay ba người gồm phi công, hoa tiêu/nạp đạn và một xạ thủ súng máy phía sau.A-26BMáy bay ném bom cường kích. Có 1.150 chiếc A-26B được chế tạo tại Long Beach (ký hiệu từ A-26B-1-DL đến A-26B-66-DL) và thêm 205 chiếc được chế tạo tại Tulsa (ký hiệu từ A-26B-5-DT đến A-26B-25-DT).[16]B-26C năm 1962A-26CMáy bay ném bom cường kích với hoa tiêu/ném bom ngồi trong khoang mũi kính. Đội bay còn bao gồm phi công và phi công phụ (bộ điều khiển bay kép) cùng một kỹ sư bay/xạ thủ ngồi phía sau buồng lái. Vũ khí trang bị bao gồm hai súng máy 0,50 inch bắn hướng ra trước trên thân bên phải. Có tổng cộng 1.091 chiếc A-26C được sản xuất, bao gồm 1.086 chiếc được chế tạo tại Tulsa (ký hiệu từ A-26C-16-DT đến A-26B-55-DT) và chỉ có năm chiếc được chế tạo tại Long Beach (ký hiệu A-26C-1-DL và A-26C-2-DL).[16]XA-26DChiếc nguyên mẫu mang số hiệu 44-34776 dành cho phiên bản máy bay ném bom tấn công A-26D dự định; trang bị tám súng máy 0,50 inch trước mũi và sáu súng máy 0,50 inch trên cánh. Kế hoạch chế tạo 750 chiếc A-26D bị hủy bỏ khi chiến tranh kết thúc.XA-26EChiếc nguyên mẫu mang số hiệu 44-25563 dành cho phiên bản máy bay ném bom tấn công A-26E dự định; hợp đồng chế tạo 2.150 chiếc A-26E-DT bị hủy bỏ khi chiến tranh kết thúc.XA-26FChiếc nguyên mẫu mang số hiệu 44-34586 dành cho phiên bản tốc độ cao A-26F gắn hai động cơ Pratt & Whitney R-2800-83 công suất 2.100 mã lực dẫn động bộ cánh quạt 4 cánh cùng một động cơ turbo phản lực General Electric J31 lực đẩy 1.600 lb gắn ở phía sau thân. Chiếc nguyên mẫu đạt được tốc độ tối đa 435 dặm/giờ nhưng sự phát triển loạt máy bay này bị hủy bỏ do sự cải thiện về tính năng bay không thỏa đáng.A-26ZTên gọi không chính thức dành cho một phiên bản của A-26 được đề nghị sau chiến tranh. Nó được dự định trang bị một phiên bản mạnh mẽ hơn của động cơ Pratt & Whitney R-2800 bố trí hình tròn; và có các đặc tính như nóc buồng lái nhô cao, việc bố trí trong buồng lái được cải tiến và thùng nhiên liệu phụ vứt được ở đầu cánh. Nếu được sản xuất, phiên bản chiếc máy bay có mũi kim loại kín được đặt tên là A-26G trong khi phiên bản mũi kính có tên là A-26H. Tuy nhiên, vào tháng 10 năm 1945, Không lực Mỹ kết luận rằng họ có đủ số máy bay A-26 cần thiết cho nhu cầu sau chiến tranh, và do đó phiên bản "A-26Z" không đượcđưa vào sản xuất.JD-1Phiên bản của Hải quân Hoa Kỳ với một chiếc A-26B (số hiệu 44-34217) và một chiếc A-26C (số hiệu 44-35467) được đặt lại tên trong Thế Chiến II. Sau chiến tranh, 150 chiếc A-26 dư ra được sử dụng bởi các phi đội trú đóng trên đất liền như là các mục tiêu giả kéo theo, và sau này như là máy bay điều khiển mục tiêu giả (đặt tên là JD-1D) và máy bay đa dụng. Vào năm 1962 các kiểu JD-1 và -1D được đổi tên tương ứng là UB-26JDB-26J.RB-26CBiến thể trinh sát hình ảnh không vũ trang cải biến từ kiểu B-26C; nó mang các máy ảnh và pháo sáng để chụp ảnh ban đêm. Được đặt lại tên từ kiểu máy bay trinh sát FA-26.YB-26KChiếc nguyên mẫu của On Mark Engineering cho kiểu máy bay ném bom/cường kích được tân trang. Các cải tiến bao gồm các cánh được chế tạo lại và gia cố, cánh đuôi mở rộng, động cơ R-2800-103 mới với trục xoay cánh quạt có thể đảo chiều, bộ điều khiển bay kép, thùng nhiên liệu phụ ở đầu cánh, hệ thống điện tử mới và tăng cường bổ sung các đế mang vũ khí. Trong các chiến dịch tại Việt Nam vào tháng 5 năm 1966, kiểu máy bay này được đặt lại tên cũ của phiên bản máy bay tấn công (cường kích) là A-26A. Theo bộ phim tài liệu "Wings" được trình chiếu trên kênh Discovery Channel, chiếc B-26 được đổi tên lại thành A-26 vì Thái Lan khi ấy không cho phép một kiểu máy bay ném bom được phép cất cánh từ những sân bay của họ, nhưng lại cho phép những chiếc máy bay tấn công (cường kích) làm việc đó. Những chiếc A-26A được cho nghỉ hưu khi thời gian bay của nó đạt đến giới hạn an toàn cho phép.B-26KPhiên bản cải biến của On Mark Engineering thực hiện trên 40 chiếc B-26B và TB-26B cùng hai chiếc B-26C và một chiếc JB-26C; các thay đổi bao gồm việc trang bị loại động cơ R-2800-52W công suất 2500 mã lựcvà không có trục xoay cánh quạt cũng như loại bỏ sáu súng máy trên cánh.RB-26LHai chiếc RB-26C (số hiệu 44-34718 và 44-35782) được cải biến để thực hiện các phi vụ trinh sát hình ảnh ban đêm.B-26NTên không chính thức được đặt cho những chiếc B-26 do Không quân Pháp (L'Armee de l'Air) sử dụng tại Algeria như là máy bay tiêm kích bay đêm. Những chiếc máy bay này được cải tiến từ những chiếc B-26C, trang bị radar AI Mk X lấy ra từ những chiếc máy bay tiêm kích bay đêm Meteor NF.11 đã lạc hậu, hai bộ súng máy dưới cánh mỗi bộ bao gồm hai khẩu súng máy M2 Browning, và các đế mang rocket SNEB.[17]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Douglas_A-26_Invader http://www.a26ladyliberty.com/ http://www.kensmen.com/jun44.html http://www.military.cz/usa/air/war/bomber/a26/a26_... http://www.hill.af.mil/museum/photos/wwii/a26.htm http://www.hurlburt.af.mil/basewide/airpark/a26/in... http://www2.hurlburt.af.mil/library/factsheets/fac... http://www.af.mil/news/airman/0501/vet.html http://home.att.net/~jbaugher4/a26_14.html http://www.acig.org/artman/publish/article_347.sht... https://www.airforcehistory.hq.af.mil/PopTopics/B2...